TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 9 TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN.

Tháng Hai 26, 2016 8:35 sáng

TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH LỚP 9 TRONG MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN.
NGUYỄN THỊ TUYẾT LAN – THCS QUẢNG LỘC
——————————————————————————
I.PHẦN MỎ ĐẦU
1.1.Lý do chọn đề tài
Trước đây, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) không được coi trọng ở trường phổ thông, người dạy thường trái môn,giáo viên thiếu tiết theo quy định thì dạy kèm để đủ tiết định biên hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp nào thì dạy bộ môn Giáo dục công dân lớp đó. Vì vậy, giáo viên dạy bộ môn này chưa có sự đầu tư trong bài dạy. Nội dung bài dạy đơn điệu, sơ sài. Thậm chí giờ dạy chỉ qua loa, chiếu lệ. Hiện nay, bộ môn GDCD đã được chỉ đạo cải tiến về phương pháp dạy học cùng như những đợt hội giảng, thi giáo viên giỏi các cấp hay những đợt thanh tra chuyên môn, giáo viên được cọ sát, học hỏi rất nhiều. Song nếu chỉ qua những đợt thi đó thì chưa đủ mà giáo viên còn phải tìm tòi, sáng tạo phương pháp dạy học mới để phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học đồng thời khêu gợi niềm say mê, hứng thú của học sinh với bộ môn giáo dục nhân cách này. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 9 trong môn học giáo dục công dân .”
Khi thực hiện đề tài này bản thân tôi nhận thấy sẻ đạt được những điểm mới sau::
Tạo được hứng thú cho học sinh trong học tập ở lớp cũng như ở nhà đối với môn học,kích thích hoạt động sáng tạo, xây dựng cơ hội khám phá,ứng dụng tri thức bằng thúc đẩy hoạt động tìm hiểu thực hành,từ đó các em tích cực tham gia vào bài học hơn tránh được sự nhàm chán trong phương pháp dạy và học truyền thống.
Đảm bảo tính chính xác, khoa học, tính rõ ràng về nội dung bài học .Giáo viên dễ dàng trong truyền thụ kiến thức và nhận xét đánh giá học sinh. Học sinh nhanh chóng nắm bắt nội dung bài học,nhận biết và sửa đổi các hành vi sai trái,có nhiều cơ hội phát huy tính tích cực,nhanh chóng nắm được kiến thức tại lớp vận dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày.
Tiết kiệm được thời gian ,công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng,giáo cụ trực quan trước khi lên lớp đồng thời bám sát yêu cầu của PPDH đổi mới kết hợp phương pháp dạy học truyền thống phù hợp với cả 3 đối tượng học sinh và thực trạng dạy-học của nhà trường.
Vận dụng ứng dụng CNTT,tạo trực quan sinh động gắn với nội dung cụ thể của từng bài nhằm xây dựng yếu tố hấp dẫn lôi cuốn kích thích tư duy để học sinh nhanh chóng nắm được bài giảng,nhớ lâu,nhớ sâu nội dung bài học.
Thuận lợi,dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh,dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh.
1.2.Mục đích nghiên cứu:Nhằm tạo hứng thú trong quá trình học tập cho học sinh, để giúp học sinh nắm được kiến thức bài học một cách nhanh chống và vận dụng vào thực tế cuộc sống một cách linh hoạt.
1.3.Đối tượng và phạm vi áp dụng đề tài:
Học sinh trường THCS –khối 9-Lớp dạy 91+92 năm học 2015-2016.
II.NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận
Đặc điểm của môn học GDCD ở trường THCS là bao quát các kiến thức về đạo đức học và pháp luật …Tất nhiên, các kiến thức của nó không quá phức tạp,đòi hỏi tư duy cao. Nó cung cấp những tri thức cơ bản về quan hệ xử sự trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em…), quan hệ ứng xử với hàng xóm, quan hệ cộng đồng xã hội.Đồng thời môn học này còn cung cấp những hiểu biết về các qui tắc,quy định của pháp luật như quyền lao động,quyền và nghía vụ công dân… Đặc điểm chương trình là kết cấu đồng tâm với các lớp của các cấp học cao hơn.
Như vậy, môn GDCD có vị trí rất quan trọng, nó kết hợp với các môn học khác có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức và pháp luật cho học sinh. Song môn học này giáo dục với tính chất cụ thể nhất. Nội dung các bài học đã trực tiếp xây dựng nên nền tảng tư tưởng,tình cảm đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, học đường và cộng đồng xã hội. Vì thế giáo viên dạy bộ môn này cần phải thấy rõ và đánh giá đúng được vị trí, tầm quan trọng của môn học.
2.2. Thực trạng việc giảng dạy bộ môn GDCD ở nhà trường hiện nay :
Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ,đáp ứng phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, ngành giáo dục vẫn còn trăn trở cùng sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phương pháp giáo dục đào tạo nêu trên, tuy có được nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn học tập cũng như đời sống hằng ngày nhưng chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì sao vậy? Có rất nhiều lí do dẫn đến việc giáo dục nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao.
Vấn đề trước hết phải kể đến đó là xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục còn
chú trọng các môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý nâng cao nhân cách cho học sinh, nghĩa là chỉ chú ý rèn tài mà chưa chú ý rèn đức. Biểu hiện cụ thể mà ai cũng thấy rõ là môn GDCD xem như là môn học phụ không cần thiết,chưa được chọn vào môn bồi dưỡng và ôn thi học sinh giỏi và chưa bao giờ được Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp vào môn thi tốt nghiệp hay vào cấp III dù chỉ một lần. Điều này không chỉ làm cho học sinh mà cả giáo viên chủ quan.Chính môn GDCD không được chọn vào các môn thi trong các kì thi quan trọng nên sách tham khảo,sách bài tập còn ít, đặc biệt là sách viết về phương pháp dạy học bộ môn này thì càng hạn chế.
Một vấn đề nữa là lượng thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1 tiết / tuần ). Sách mới viết hiện nay nội dung rất phong phú, hợp với trình độ học sinh nhưng nếu giáo viên dạy bộ môn mà không có sự đầu tư,liên hệ,ứng dụng thực tiễn thì giờ học sẽ rất nhàm chán,thậm chí học sinh không chú ý lắng nghe. Thực tế đã cho thấy hầu hết học sinh không hứng thú học bộ môn này.
Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của khối lớp 9,tôi nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng nào.Thứ hai vì trình độ chuyên môn về môn này của giáo viên còn hạn chế nên những nội dung bài dạy còn chưa sâu,chưa kĩ.
Thông qua thi giáo viên dạy giỏi bộ môn Giáo dục công dân cấp THCS năm học 2014-2015 vừa qua, trải qua những vòng loại, các giáo viên đạt thành tích cao trong hội thi đều là những giáo viên đã biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học để gây hấp dẫn, hứng thú cho học sinh và điều rất quan trọng đó là sử dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là kênh hình hợp lí, để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh.
2.3.Thực trạng học sinh trường THCS học môn Giáo dục công dân :
Học sinh ở trường hầu hết là con em vùng nông thôn thu nhập chủ yếu bằng nông nghiệp và ngư nghiệp nên trình độ dân trí thấp.Phụ huynh học sinh chủ yếu lo miếng cơm manh áo mà chưa chú ý giáo dục con cái toàn diện về mọi mặt.
Đa số học sinh chưa có ý thức tự giác học tập, ít tham khảo sách vở,ham chơi,một số em thì phải phụ giúp gia đình để có thu nhập. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ cụ thể . Các em rất ngại đi tìm tư liệu cho bài học, tiếp thu bài một cách thụ động dẫn đến kết quả bài học cũng như chất lượng giảng dạy bộ môn không cao.
2.4.Các giải pháp
a.Một vài suy nghĩ của bản thân về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh
Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học là vấn đề mà bất kì giáo viên nào khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt ,song thực tế không phải ai cũng thành công. Bằng chứng cho thấy,có những giáo viên khi lên lớp,học sinh rất thích học,nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học sinh không có hứng thú với giờ học,môn học,gây ra mất trật tự.Theo tôi để tạo được hứng thú trong giờ học GDCD giáo viên phải nắm vững các bước sau:
-. Công tác giáo dục tư tưởng đạo dức, chính trị và pháp luật phải phù hợp với trình độ kiến thức của chương trình học:
Đặc điểm kiến thức của lớp 6,lớp 7 về đạo đức và pháp luật là rất giản đơn như khái niệm về khoan dung, lễ độ, trung thực,quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,các quyền của trẻ em,thực hiện an toàn giao thông,Quyền tự do tín ngưỡng,… những kiến thức này thường phải gắn với thực tế để minh hoạ, giảng giải và mức độ xây dựng tình cảm cho học sinh nhẹ nhàng,tự nhiên trên cơ sở của việc giảng giải.
– Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi :
Hầu hết học sinh THCS còn nhỏ tuổi.Việc hiểu các khái niệm còn trực tiếp,cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giáo dục thích hợp.Việc giáo dục tư tưởng đạo đức ,pháp luật cho học sinh phải trên cơ sở ý nghĩa rút ra của mỗi khái niệm và kiến thức bài giảng. Từ đó để học sinh cảm nhận và tự nâng lên thành nhận thức và ý thức của bản thân.
– Công tác giáo dục tư tuởng đạo đức,pháp luật cho học sinh phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu thự tiễn của xã hội hiện nay:
Những yêu cầu về lối sống hiện nay.
Những ứng xử hằng ngày của học sinh (trong gia đình, nhà trường, xã hội…)
Những vấn đề an toàn giao thông.
Những vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
Những vấn đề về kỉ luật trong học tập, lao động.
b.Các giải pháp cơ bản khi thực hiện
Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức,pháp luật cho học sinh qua môn học GDCD muốn thực hiện được tốt,theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Thầy là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học sinh phải được “phát ngôn”theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học, giúp học sinh say mê với môn học.
Với SGK, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi bài học để HS chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên “biến hóa” để HS hiểu bài.Tuy nhiên, cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm, việc sưu tầm tư liệu có thể mất khá nhiều thời gian.
Thực tế, nếu rập khuôn theo SGK thì môn GDCD là khô cứng,giáo điều, HS
rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài liên quan đến tư tưởng đạo đức,pháp luật như bài: Tình hữu nghị các dân tộc trên thế giới;Hợp tác cùng phát triển;Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc;Vi phạm phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí của công dân;Quyền tham gia quản lí nhà nước quản lí xã hội của công dân… Kiến thức đưa vào thì giáo viên phải dạy và học sinh đều phải học, tuy nhiên, để minh họa rõ cho bài học thì khá khó khăn.
Từ thực tế giảng dạy,tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học GDCD cần chú ý các biện pháp sau:
– Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho bài giảng phong phú sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về bài học.
Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng Internet, truyền hình …giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho bài giảng.
– Biện pháp nêu gương :
Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người thật, việc thật. Đồng thời cả gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra phải được nhiều học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở trường,lớp và ở địa phương mình.
– Biện pháp mời báo cáo ngoại khoá:
Ví dụ: – Mời báo cáo an toàn giao thông.
– Báo cáo gương tốt trả của rơi cho người bị mất.
– Báo cáo về gương dũng cảm cứu người bị nạn…
Biện pháp này, học sinh phải được chuẩn bị, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm tư liệu, kiểm tra bài báo cáo trước khi học sinh trình bày trước lớp.
– Biện pháp tổ chức cho học sinh đi tham quan các chủ đề đạo đức và pháp luật:
Biện pháp này phải được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà trường, giáo viên nên liên hệ địa điểm trước khi tham quan thông báo và được sự nhất trí của phụ huynh học sinh.
– Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức-người tốt, việc tốt:
Biện pháp này có thể kết hợp với đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm để học sinh được tập duyệt trong giờ sinh hoạt lớp.
Bên cạnh giờ lên lớp của môn GDCD, các nhà trường nên tổ chức giáo dục đạo đức công dân cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, qua lễ chào cờ đầu tuần, giờ sinh hoạt lớp…giúp HS hiểu rõ hơn các “chuyển động” trong đời sống xã hội.
c.Ví dụ một bài dạy cụ thể:
GDCD lớp 9-Bài 7 -Tiết 9:Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc (tiết 1)
+ Chuẫn bị của giáo viên
– Những ví dụ thực tế. Những tấm gương.
– Chuẩn bị băng hình chính diện và phản diện về lối sống biết kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc hiện nay.
– Các hình ảnh thể hiện truyền thống dân tộc.
+ Chuẫn bị của học sinh
– Tìm hiểu những tấm gương tiêu biểu về kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc
– Chuẩn bị câu hỏi tọa đàm,thảo luận.
– Chuẩn bị phần máy tính phục vụ cho buổi toạ đàm.
+ Các biện pháp tiến hành:
Đối với bài này, tôi xác định đây là một bài dạy khó, các kiến thức của bài rất trừu tượng đối với học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh dễ hiểu, bài dạy gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh. Tôi suy nghĩ và vận dụng các biện pháp tích hợp để tạo hứng thú trong gìơ dạy. Tuy nhiên yếu tố không thể thiếu để làm nên thành công trong giờ dạy đó là sử dụng công nghệ thông tin .
– Biện pháp đưa các tư liệu cuộc sống vào bài dạy để tạo ấn tượng cho học sinh:
Đối với bài học này để tìm hiều một số truyền thống của dân tộc,tôi đã đưa ra các hình ảnh thể hiện truyền thống dân tộc cho học sinh quan sát . Những tư liệu này rất đơn giản và đều có trên mạng. Ví dụ:Đây là những truyền thống và phong tục tốt đẹp của dân tộc.

Qua quan sát các hình ảnh trên em hãy nêu một số truyền thống tốt đẹp của dân tộc?từ đó học sinh tự rút ra được các truyền thống.
Ở phần này giáo viên cần nhấn mạnh thêm vấn đề :Bên cạnh những yếu tố mang tính tích cực của truyền thống thì nó vẫn còn tồn tại những yếu tố mang tính tiêu cực,như:mê tín dị đoan,tư tưởng phong kiến,tổ chức ma chay linh đình,tư tưởng coi thường pháp luật….ở phần này giáo viên cũng trình chiếu một số hình ảnh để học sinh quan sát.
Qua đó em hiểu như thế nào là phong tục và như thế nào là hủ tục?(phong tục:Là những truyền thống tốt thể hiện sự lành mạnh và chiếm phần chủ yếu.Ngược lại truyền thống không tốt ,không phải là chủ yếu gọi là hủ tục.).
Với phương pháp này sẽ tạo dược sụ hứng thú và tích cực học tập của học sinh.
– Biện pháp nêu gương:
Những tấm gương mà tôi nêu ra rất gần gũi với học sinh đó là những tấm gương ngay ở trường, địa phương , học sinh biết rất rõ.
Ví dụ: Hãy nêu tấm gương ở quê hương em biết kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc?
Sau khi học sinh nêu xong tôi giới thiệu thêm một số tấm gương người tốt,việc tốt được quảng bá trên đài,báo,truyền hình…, để học sinh biết thêm những tấm gương về người thật,việc thật để học sinh học tập và noi theo.

– Biện pháp cùng tìm hiểu, cùng làm theo
Cho học sinh nêu các truyền thống của dân tộc mà ở trường thường tổ chức cho học sinhhiện nay?
Có rất nhiều truyền thống mà ở trường tổ chức rất sôi nổi,các em rất ưa thích như: các trò chơi dân gian:Rồng rắn lên mây;Ô ăn quan;Bít mắt bắt dê;Kéo co;Tổ chức thi nấu ăn vào dịp 08-03,20-10;Tổ chức thăm viếng nghĩa trang liệt sỹ;tổ chức thăm hỏi các gia đình có công với cách mạng vào dịp 27-07,22-12…..
– Biện pháp toạ đàm : Học sinh được tổ chức một buổi toạ đàm kết hợp trong hoạt động ngoài giờ lên lớp nói về truyền thống tốt đẹp của dân tộc (thời gian 15-20 phút). Nội dung phải được cô giáo duyệt trước.Các em tham gia rất nhiệt tình. Có thể nói qua phần chuẩn bị các em đã nắm được cơ bản nội dung bài học.
* Nội dung toạ đàm gồm hai phần
– Phần 1:Chơi trò chơi ô chữ: Học sinh tìm hiểu về các truyền thống của dân tộc. Mục đích để cho học sinh thấy mình cần phải làm gì để tiếp tục kế thừa và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Phần này học sinh cũng có những hình ảnh cụ thể để minh họa.
– Phần 2: Tổ chức thi văn nghệ giữa các tổ với nhau về chủ đề hát dân ca và hát quan họ để thể hiện được truyền thống văn hóa nghệ thuạt của dân tộc.
Tóm lại: Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong bài dạy của mình,đa số học sinh hiểu và nắm được bài. Các em biết vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. Điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn GDCD,các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích,giúp các em hình thành tư tưởng đạo đức đúng đắn, biết sống có ích cho mình,cho gia đình và cho xã hội
d.Kết quả có so sánh đối chứng thu được sau bài dạy như sau: ( Đánh giá của tổ khoa học xã hội sau dự giờ )
LỚP SĨ SỐ HS HIỂU BÀI TỐT H/S HIỂU BÀI H/S KHÔNG HIỂU BÀI SỐ BT ĐÃ LÀM
91 37 25 12 0 BT- SGK: 4
BT BỔ SUNG: 2
So sánh với kết quả lớp 92: (Lớp không áp dụng đề tài)
LỚP SĨ SỐ HS HIỂU BÀI TỐT H/S HIỂU BÀI H/S KHÔNG HIỂU BÀI SỐ BT ĐÃ LÀM
92 29 15 10 4 BT- SGK: 2
BT BỔ SUNG: 0

III. KẾT LUẬN
3.1.Ý nghĩa rút ra từ đề tài:
– Thông qua ứng dụng các biện pháp trên sẽ phát huy việc đổi mới PPDH,đáp ứng được yêu cầu thực hiện cuộc vận động ứng dụng CNTT vào công tác giảng dạy mà Bộ GD phát động góp phần thúc đẩy phong trào giảng dạy ứng dụng CNTT trong nhà trường.
– Sử dụng triệt để các trang thiết bị đồ dùng dạy học hiện có và thực tế giảng dạy của nhà trường,phát huy năng lực tư duy,tích cực sáng tạo của học sinh rất phù hợp và tiện dụng cho việc vận dụng phương pháp dạy học đổi mới hiện nay và xu hướng phát triển giáo dục nói chung.
-Tạo trực quan rất sinh động cho học sinh,các em có điều kiện phát huy tính tích cực,chủ động sáng tạo trong học tập,đồng thời có điều kiện làm quen và học tập ,ứng dụng CNTT kết hợp học với hành,bám sát thực tế cuộc sống; nhất là với học sinh trong nhà trường thuộc địa bàn vùng nông thôn vì các em chưa có điều kiện tiếp cận ,ứng dụng với máy tính ,với khoa học công nghệ.
Qua đề tài nghiên cứu rút ra được một số kinh nghiêm sau:
* Tính giáo dục:
Qua việc thực hiện đề tài trên trong năm học vừa qua,tôi thấy rằng nếu giáo viên thường xuyên có ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,chịu khó tìm tòi sáng tạo tìm cách đổi mới PPDH,đầu tư thời gian nghiên cứu để ứng dụng công nghệ hiện đại vào giảng dạy một cách phù hợp với bộ môn thì sẽ đem lại hiệu quả giáo dục rất cao không chỉ đối với học sinh mà các thầy cô giáo cũng sẽ không ngừng nâng cao nghiệp vụ và sự hiểu biết.
* Đối với giáo viên:
– Bằng việc chuẩn bị tốt cho giờ dạy(đầu tư tìm tư liệu xây dựng giáo án)giúp giáo viên khắc sâu kiến thức cần dạy,mở rộng,liên hệ,tích hợp kiến thức ở các phân môn khác tạo điều kiện để học sinh nhanh chóng tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống,đẩy mạnh việc rèn luyện tư tư tưởng đạo đức cho học sinh.
– Giáo viên đỡ phải vất vả viết bảng chính nhiều như¬ như phương pháp dạy truyền thống (bảng chính chỉ cần ghi những đề mục lớn và nội dung cơ bản của bài).
– Tiết kiệm được thời gian ,công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng,giáo cụ trực quan ,bản thân người thực hiện sẽ nhanh chóng nâng cao kỹ năng về CNTT.
– Tạo trực quan rất sinh động cho h/s,giáo viên phát huy đ¬ược vai trò chủ đạo của mình trong việc hư¬ớng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức đó vào thực tế.
– Có nhiều điều kiện tạo tình huống có vần đề để kích thích học sinh tư duy,phát
huy tính tích cực,sáng tạo cho học sinh.
– Thuận lợi,dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của h/s,dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh.
* Đối với học sinh:
– Thay cho việc chỉ sử dụng SGK là duy nhất, nay học sinh được sử dụng những phương tiện có tác dụng tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh: Các em được nhìn – nghe – nói – viết một cách trực quan sinh động,đư¬ợc thảo luận trong nhóm học tập của mình, được đưa ra ý kiến,đư¬ợc rèn luyện các kĩ năng nói và viết của bản thân. Điều đó giúp các em phát huy tối đa vai trò chủ động của mình trong giờ học.
– Học sinh có nhiều điều kiện làm quen và học tập ,ứng dụng CNTT; nhất là với h/s trong nhà trường thuộc địa bàn miền núi chưa có điều kiện tiếp cận ,ứng dụng với máy tính ,với khoa học công nghệ.
*Tính thực tiễn và giá trị phổ biến:
Như¬ trên tôi đã trình bày,việc tìm kiếm tư liệu và chọn lọc các biện pháp phù hợp với từng bài dạy kết hợp với các phương pháp dạy học đổi mới khác sẽ đạt hiệu quả nâng cao chất lượng bài dạy không chỉ đối với môn GDCD mà còn ở tất cả các môn học khác . Tôi thiết nghĩ điều đó hoàn toàn khả thi trong từng tiết dạy của các bộ môn bởi lẽ:
– Phư¬ơng pháp giáo dục “Lấy học sinh làm trung tâm” coi thiết bị dạy học như¬ một nguồn thông tin dẫn học sinh tự tìm tòi để tiếp cận và vận dụng những tri thức mới vào thực tiễn.
– Việc xây dựng các biện pháp đổi mới để giảng dạy đối với những môn học không có sẵn thiết bị là điều vô cùng cần thiết và cũng không tốn kém,dễ làm ,dễ sử dụng. Đồng thời dễ chỉnh sửa để giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng h/s ở các lớp khác nhau,hơn nữa có thể tái sử dụng cho những năm sau và lại dễ phổ biến rộng rãi nhờ sự phát triển của CNTT như hiện nay .
3. 2. Đề xuất ý kiến:
– Đề nghị Nhà trường và Phòng Giáo dục lưu lại, phổ biến những kinh nghiệm hay và thiết thực, có tính khả thi cao để triển khai rộng rãi, giúp giáo viên có điều kiện tham khảo, học tập và vận dụng trong giảng dạy hằng ngày.
– Đề nghị các cấp, các ngành tạo điều kiện trang bị đầy đủ và cập nhật hơn về các thiết bị CNTT phục vụ công tác dạy và học,đặc biệt là các trường miền núi vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn.
-Tạo điều kiện về kinh phí và có hình thức khen thưởng,động viên xứng đáng hơn đối với các thầy cô giáo nhiệt tình học hỏi và có nhiều sáng tạo và vận dụng PPDH đổi mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của cá nhân tôi.Đó là những ý kiến,việc làm rất nhỏ góp phần vào việc đổi mới PPDH cũng như nâng cao chất lượng dạy học.Theo tôi đây là cách dạy và học tập tốt, học đi đôi với hành, rất phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Việc xây dựng,sử dụng tư liệu,đồ dùng dạy học đúng lúc,đúng chỗ, phù hợp với nội dung bài dạy sẽ góp phần kích thích hứng thú học tập của học sinh.Các em sẽ tích cực hơn, thích phát biểu xây dựng bài,theo dõi bài chăm chú hơn, ghi chép cẩn thận hơn vì có những trực quan sinh động,tích hợp.Các em sẽ có điều kiện học tập tốt hơn nhanh chóng hiểu sâu,hiểu kỹ nội dung bài học,tăng cường kỹ năng vận dụng thực hành.Mỗi giáo viên hoàn toàn có khả năng tự học,tự làm ,tự nâng cao về mọi mặt cho bản thân mà không cần phải đầu tư kinh phí quá tốn kém.Vấn đề là ở chỗ người thầy cần có kế hoạch học tập,tìm hiểu,nghiên cứu và ứng dụng sáng tạo,tâm huyết với nghề để ngày càng phát huy hiệu quả CNTT và sự hữu ích của nó trong giảng dạy bộ môn GDCD nói riêng cũng như¬ các bộ môn khác trong nhà trường nói chung.

Để có những giờ dạy đạt hiệu quả cao,học sinh dễ hiểu,dễ ghi nhớ nội dung là một
việc làm không quá khó.Trong qúa trình giảng dạy tôi mạnh dạn nêu một vài kinh nghiệm nhỏ của mình,rất mong được nhận được sự trao đổi,đóng góp chung của các thầy cô đồng nghiệp cùng chuyên môn để học sinh hào hứng hơn với môn học này,hướng tới mục đích ngày càng nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

PHỤ LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1Lí do chọn đề tài.
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

II- NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lí luận.
2.2 Thực trạng việc giảng dạy môn GDCD ở nhà trường hiện nay.
2.3.Thực trạng học sinh trường THCS học môn GDCD
2.4. Các biện pháp thực hiện.
a. Một vài suy nghĩ của bản thân về vấn đề tạo hứng thú học tập cho học sinh
b. Các giải pháp cơ bản khi thực hiện
c. Ví dụ một bài dạy cụ thể
d. Kết quả so sánh đối chứng sau khi dạy xong
III- PHẦN KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa rút ra từ đề tài
3.2 Đề xuất,kiến nghị

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THCS QUẢNG LỘC
Điểm……….
Nhận xét:
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Quảng lộc, ngày…..tháng….. năm 2016
Chủ tịch

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT TXBA ĐỒN
Điểm……….
Nhận xét:
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….
Quảng lộc, ngày…..tháng….. năm 2016
Chủ tịch

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THCS QUẢNG LỘC
Điểm:…………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..………………………………………………………………
Ngày….tháng…..năm2016.
CHỦ TỊCH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD-ĐT TX BA
Điểm:…………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Ngày….tháng…..năm2016
CHỦ TỊCH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG THCS QUẢNG LỘC
Điểm:…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Ngày….tháng…..năm 2016
CHỦ TỊCH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CỤM HÒA-LỘC- VĂN
Điểm:…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Ngày….tháng…..năm 2016
CHỦ TỊCH

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PGD-ĐT TX BA ĐỒN
Điểm:…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Ngày….tháng…..năm 20….
CHỦ TỊCH

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………